Sự kết hợp tinh tế của gạo, rau khúc, thịt, hành...khiến ai đã từng thưởng thức bánh khúc làng Diềm không thể quên được.
Làng Diềm là tên gọi nôm của thôn Viêm Xá, xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh. Là ngôi làng cổ có đền thờ Đức Vua Bà, thuỷ tổ quan họ, từ lâu nơi đây
đã trở thành điểm hẹn của du khách gần xa mỗi khi muốn lắng nghe và tìm
hiểu câu ca quan họ. Nhưng không chỉ có vậy, những ai có dịp đến đây,
tất thảy đều không thể quên được món bánh khúc bình dị, thảo thơm của
vùng quê Kinh Bắc.
Không ai trong làng Diềm nhớ bánh khúc có từ bao giờ, chỉ biết đã có từ
rất lâu. Người dân trong làng truyền tai nhau bánh có từ thời Vua Bà
song song với sự xuất hiện của các làn điệu dân ca quan họ. Từ đó, theo
hình thức cha truyền con nối, nghề làm bánh khúc được gìn giữ cho đến
ngày nay.
Bà Nguyễn Thị Chì, thôn Viêm Xá, xã Hòa Long, thành
phố Bắc Ninh từ nhỏ đã được học cách làm bánh từ bố mẹ. Lớn lên, bà gắn
bó với nghề làm bánh khúc và đây trở thành nguồn thu nhập chính của gia
đình. Hơn 30 năm làm bánh, bà Chì coi nghề này như một phần cuộc sống
của mình. Vừa nhanh tay giã bột, bà Chì chia sẻ, niềm vui lớn nhất của
những người làm bánh là được nghe những lời tán thưởng của khách.
Rau khúc, nguyên liệu chính làm bánh khúc ở làng Diềm.
Theo bà Chì, bánh khúc được làm hoàn toàn thủ công. Mỗi chiếc bánh chứa
đựng tâm tư, tình cảm của người dân làng Diềm. Bởi vậy, bà cẩn thận lựa
chọn nguyên liệu kỹ, chú trọng từng thao tác. Lớp vỏ bánh được làm từ
gạo tẻ Khang dân hoặc 203 để bánh vừa bảo đảm về độ dẻo và ít dính.
Gạo
được ngâm khoảng 3- 4 tiếng rồi đem xay nhỏ cho nhuyễn, sau đó mang ráo
bột. Đây là khâu quyết định chất lượng của bánh vì nếu bột khô, bánh sẽ
rắn và bột nhão quá sẽ không nặn được, bánh sẽ bị nát. Sau khi ráo
nước, bột được nắm thành từng nắm nhỏ rồi trần qua nước sôi (được người
dân gọi là trùng bột). Khâu này sẽ tạo độ dẻo cho bánh.
Ngoài
ra, một nguyên liệu không thể thiếu khi làm món bánh khúc là rau khúc
(người dân nơi đây vẫn gọi là rau đồng khúc). Rau khúc tươi được thu
hoạch đúng thời điểm khi rau có nụ và phấn trắng. Rau thu hoạch về được
rửa sạch, luộc qua rồi đem vắt sạch nước, sau đó trộn lẫn bột và đem giã
nhuyễn.
Cùng với sự nhịp nhàng của bàn tay người thợ bánh, màu
xanh của rau được hòa quyện với màu trắng của bột sẽ tạo thành màu xanh
mịn, đến bao giờ cầm không dính là được. Rau và bột được làm theo tỷ lệ
nhất định. Nếu rau càng nhiều, độ thơm, ngon càng tăng nhưng thông
thường, chia theo tỷ lệ 1 kg rau tươi tương ứng với 2 kg bột gạo.
Bánh khúc nặn hình tai voi trước khi đem hấp.
Nhân
bánh khúc có hai loại, nhân đỗ và nhân thịt, tùy thuộc vào khẩu vị
người ăn mà mỗi người làm khác nhau. Với nhân đỗ, đỗ được ngâm, hấp chín
rồi trộn cùng thịt ba chỉ, hành khô, hạt tiêu đã nấu chín rồi nêm gia
vị vừa vặn. Nhân thịt được làm từ thịt ba chỉ thái hạt lựu trộn đều với
mộc nhĩ, hành thái nhỏ và hạt tiêu.
Sau khi hoàn thành xong khâu
chuẩn bị nguyên liệu, thú vị nhất là khâu nặn bánh. Bà Nguyễn Thị Chì
cho biết, buổi tối ở những gia đình làm bánh bán, các thành viên trong
nhà lại quây quần xung quanh thau bột cùng nặn bánh để kịp bán vào sáng
hôm sau. Khác với những loại bánh khúc ở các làng khác, bánh khúc làng
Diềm được nặn hình tai mèo, người làm bánh xoay tròn, tán mỏng viên bột
rồi cho nhân vào giữa bọc lại sao cho vỏ mỏng nhưng không được lộ nhân.
Bánh
sau khi nặn xong đem hấp khoảng 30 phút sẽ chín. Thưởng thức bánh khi
còn nóng hổi là thơm ngon nhất. Lúc này, lớp vỏ bánh bóng, dai, hòa
quyện cùng mùi thơm của rau khúc, hạt tiêu, vị bùi của đỗ, thịt, giòn
của mộc nhĩ.
Sau khi hấp, bánh có màu xanh thẫm, bóng, thơm mùi rau khúc đặc trưng.
Bánh khúc làng Diềm độc đáo, có giá trị tinh thần
cao, tuy nhiên, đến nay, làng chỉ còn 5 hộ thường xuyên làm bánh bán,
chủ yếu tiêu thụ trong làng. Những người già trong làng giữ thói quen
làm bánh khi có hội hoặc làm quà cho khách quý. Gia đình bà Nguyễn Thị
Thềm, thôn Viêm Xá, xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh có 5 đời làm bánh
khúc.
Mỗi ngày, gia đình bà làm khoảng 200 chiếc bánh với giá
2.000 - 2.500 đồng/chiếc. Trừ chi phí, gia đình bà lãi gần 100.000 đồng.
Ngoài ra, gia đình bà còn làm theo đơn đặt hàng của khách. Những ngày
rằm, lễ hội gia đình bà làm 50 kg gạo, tương đương 3.000 - 4.000 bánh.
Tuy nhiên, việc đưa bánh ra thị trường trong và ngoài tỉnh chưa được chú
trọng do người dân trong làng chưa có phương thức giới thiệu sản phẩm
cũng như thị trường tiêu thụ.
Bà mong muốn có thể giới thiệu sản
phẩm quê hương đến đông đảo người tiêu dùng. Đặc biệt việc truyền nghề
đang gặp nhiều khó khăn do các con cháu trong gia đình đều đi làm xa.
Đây cũng là điều trăn trở, tâm huyết của những người nơi đây.
Bánh
khúc làng Diềm là đặc sản nổi tiếng vùng Bắc Ninh - Kinh Bắc, đi sâu
vào tiềm thức của người dân và trở thành món quà không thể thiếu mỗi khi
đến với làng Diềm. Nghề làm bánh này nếu không được quan tâm đúng mức
sẽ có nguy cơ bị mai một.
Để bánh khúc làng Diềm có thể theo
chân các du khách đến khắp mọi miền Tổ quốc, biện pháp chính là cần
tuyên truyền người dân trong làng tham gia bảo tồn nghề, chú trọng giữ
nét truyền thống, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thanh Thương (Theo TTXVN)